Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân dâng hương tại phần mộ chị Võ Thị Sáu Bộ trưởng Bộ Lao động –Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung cho biết, năm 2018 được Bộ chọn là năm đột phá trong giáo dục nghề nghiệp. Mục tiêu là tạo bước chuyển biến rõ nét, thực chất về chất lượng, hiệu quả giáo dục nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu của người học, thị trường lao động và doanh nghiệp, đặc biệt là những ngành đòi hỏi kỹ thuật, công nghệ cao của cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Năm 2017 dư luận và cử tri cả nước đánh giá cao các hoạt động kỷ niệm 70 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ do ngành Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với các ban, bộ, ngành và ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố tổ chức. Xin Bộ trưởng chia sẻ thêm về những hoạt động này, đặc biệt việc tập trung rà soát, giải quyết hồ sơ người có công tồn đọng?
- Năm 2017, là năm toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta kỷ niệm 70 năm ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7/1947-27/7/2017) - ngày được Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn là ngày “hiếu nghĩa bác ái”, “đền ơn đáp nghĩa” đối với những người và gia đình có cống hiến, đóng góp, hy sinh cho hòa bình, độc lập, tự do của Tổ quốc. Một loạt các hoạt động tiêu biểu, thiết thực kỉ niệm 70 năm ngày Thương binh - Liệt sĩ được tổ chức như: thăm hỏi, tặng quà, xây dựng nhà cho người có công, tôn tạo nghĩa trang, tượng đài liệt sĩ, trao bằng Tổ Quốc ghi công cho gia đình liệt sĩ; Hội nghị biểu dương người có công với cách mạng tiêu biểu toàn quốc; Cầu truyền hình Dáng đứng Việt Nam; Lễ mít tinh kỷ niệm 70 năm ngày Thương binh - Liệt sĩ..vv...
Xuất phát từ tình cảm, trách nhiệm, lòng biết ơn và với phương châm “không để bất cứ người có công nào không được hưởng chính sách ưu đãi của Đảng, Nhà nước, sự chăm sóc của nhân dân”, day dứt trước tình trạng một bộ phận người có công vì nhiều lý do khác nhau chưa được hưởng chính sách ưu đãi, hồ sơ tồn đọng còn nhiều, trên cơ sở kết quả triển khai thí điểm năm 2016, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Kết luận số 607/TB-TTKQH ngày 08/5/2017 và báo cáo Chính phủ ban hành Nghị quyết số 30/NQ-CP ngày 07/3/2017, chỉ đạo tập trung giải quyết các hồ sơ xác nhận liệt sĩ, thương binh, người hưởng chính sách như thương binh còn tồn đọng tại các địa phương theo trình tự, thủ tục, hồ sơ cụ thể do Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành, bảo đảm công khai, minh bạch, đồng thời xử lý nghiêm các trường hợp lợi dụng chính sách để trục lợi.
Quá trình triển khai thực hiện việc xác nhận hồ sơ người có công còn tồn đọng tại các địa phương đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ của các tầng lớp quần chúng nhân dân, huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị cùng vào cuộc, với một quyết tâm mạnh mẽ và niềm tin mãnh liệt nhằm thực hiện mục tiêu lớn lao của Đảng, Nhà nước.
Tính đến ngày 26/12/2017, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã trình Thủ tướng Chính phủ cấp, đổi trên 50.000 bằng Tổ Quốc ghi công; các địa phương, ngành, công an, quân đội đã xác nhận 2500 thương binh, người hưởng chính sách như thương binh; đặc biệt Bộ đã chủ trì thẩm định trình Thủ tướng Chính phủ xác nhận và cấp bằng Tổ Quốc ghi công đối với với 1250 liệt sĩ, trong đó phần lớn là các liệt sĩ đã hy sinh từ thời kỳ kháng chiến chống Pháp, có trường hợp đã hy sinh 86 năm.
Hai trong 10 sự kiện tiêu biểu của ngành Lao động - Thương binh và Xã hội năm 2017 được bình chọn là “ Năm đền ơn đáp nghĩa” và “Giải quyết hàng nghìn hồ sơ người có công còn tồn đọng”. Các hoạt động đền ơn đáp nghĩa đặc biệt là việc giải quyết hồ sơ tồn đọng sau chiến tranh nhận được sự đánh giá cao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước; sự ủng hộ và tin tưởng của cử tri trong cả nước đối với ngành Lao động - Thương binh và Xã hội.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khi đến thăm Trung tâm nuôi dưỡng, điều dưỡng người có công số 2 (Hà Nội) dịp 27/7, đã phát biểu: “Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã phối hợp cùng các cấp, các ngành tổ chức nhiều hoạt động kỷ niệm 70 năm ngày thương binh - liệt sĩ đa dạng, phong phú, thiết thực chăm sóc người có công, trở thành phong trào quần chúng lan tỏa sâu rộng đến từng ngõ xóm, làng xã và từng gia đình”…
Kết quả giải quyết hồ sơ tồn đọng đã làm người dân thêm tin vào ngành Lao động - Thương binh và Xã hội, điều này có làm tăng thêm áp lực lên việc xử lý số hồ sơ còn tồn đọng không, thưa Bộ trưởng?
-Kết quả việc giải quyết hồ sơ tồn đọng xác nhận người có công với cách mạng trong thời gian qua đã được nhân dân và cử tri cả nước tin tưởng và ủng hộ quyết tâm và cách làm của ngành Lao động - Thương binh và Xã hội. Giải quyết hồ sơ tồn đọng rất khó khăn, vì hầu hết các trường hợp không còn hồ sơ, giấy tờ gốc, những người giao nhiệm vụ và biết sự việc không còn…. có trường hợp để giải quyết được phải đi xác minh ở 3 quân khu và một số địa phương. Tiếp nối những kết quả đã đạt được, trong thời gian tới, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ tiếp tục triển khai quyết liệt hơn, với tinh thần trách nhiệm cao, cùng cách làm đột phá, sáng tạo gắn trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân dân để thẩm định, xem xét hoàn thành nhiệm vụ xác nhận hồ sơ còn tồn đọng sau chiến tranh trước Đảng, Nhà nước, đáp ứng lòng mong mỏi của đồng bào, đồng chí trong cả nước.
Cụ thể, tập trung thực hiện Chỉ thị số 14-CT/TW ngày 19/7/2017 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc tiếp tục sự tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác người có công với cách mạng: “Phấn đấu đến năm 2020, giải quyết cơ bản hồ sơ đề nghị xác nhận người có công với cách mạng còn tồn đọng; từng bước rà soát, phân loại và có hướng giải quyết đối với các đối tượng người có công với cách mạng còn tồn đọng ở cấp cơ sở”.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội nhận thức sâu sắc ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân: “Ưu đãi người có công với cách mạng là trách nhiệm cao cả, nghĩa tình sâu nặng, là sự quan tâm sâu sắc của Nhà nước và toàn xã hội… Các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau ghi lòng tạc dạ, mãi mãi biết ơn những người đã cống hiến, đóng góp, hi sinh, vì sự nghiệp cách mạng quang vinh của đảng, của dân tộc. Chúng ta xin hứa với anh linh, hương hồn những người đã mất trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng, giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc rằng: Tổ Quốc và nhân dân không bao giờ quên ơn những thế hệ người Việt Nam đã ngã xuống, sẽ luôn làm hết sức mình trong việc tìm mọi biện pháp, giải pháp để xác nhận và thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công và thân nhân của họ”
Tại phiên trả lời chất vấn Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 18/4/2017, Bộ trưởng có chia sẻ rằng, điều ông quan tâm nhất là làm thế nào để tạo chuyển biến thực sự về chất lượng giáo dục nghề nghiệp. Đến nay vấn đề này đã được giải quyết ra sao?
Bộ trưởng Đào Ngọc Dung trả lời Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 18/4/2017
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao luôn là đòi hỏi của mỗi quốc gia, của mỗi nền kinh tế. Đây cũng chính là mong mỏi của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với giáo dục đào tạo nói chung và giáo dục nghề nghiệp nói riêng. Giải pháp chiến lược tổng thể đã được chỉ rõ trong Đề án “Đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp(GDNN) đến năm 2020 và định hướng đến 2030” trình Thủ tướng Chính phủ. Trong đó, Đề án đã xác định 8 nhóm giải pháp, trong đó 3 nhóm giải pháp đột phá là: (1) Trao quyền tự chủ đầy đủ cho các cơ sở GDNN gắn với trách nhiệm giải trình, cơ chế đánh giá độc lập, sự kiểm soát của nhà nước, giám sát của xã hội; (2) Chuẩn hóa các điều kiện bảo đảm chất lượng; (3) Gắn kết GDNN với thị trường lao động, việc làm bền vững và an sinh xã hội.
Ngay khi được giao nhiệm vụ thực hiện quản lý nhà nước về GDNN, bản thân tôi và Lãnh đạo Bộ đã đặt ra nhiệm vụ phải nỗ lực tạo được sự chuyển biến tích cực, thực sự về chất lượng GDNN. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần xác định rõ, vấn đề này không thể giải quyết một sớm, một chiều, mà nó cần có thời gian, cần có sự quan tâm vào cuộc của cả hệ thống chính trị, của doanh nghiệp, của các thành phần kinh tế và của toàn xã hội.
Trong năm 2017, năm đầu tiên thực hiện quản lý nhà nước về GDNN, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã tập trung chỉ đạo xây dựng hệ thống văn bản quản quy phạm pháp luật về GDNN. Đến nay về cơ bản được ban hành tương đối đầy đủ, bao phủ hầu hết các hoạt động trong lĩnh vực GDNN, bảo đảm hệ thống GDNN vận hành tốt theo đúng quy định của pháp luật, đến nay đã trình ban hành và trực tiếp ban hành 42 văn bản hướng dẫn thi hành Luật GDNN, cắt giảm 31 thủ tục hành chính, bảo đảm việc đầu tư, hoạt động trong lĩnh vực GDNN thuận lợi, tiết kiệm tối đa chi phí và thời gian thực hiện.
Chương trình đào tạo được xây dựng theo định hướng năng lực thực hiện; việc tổ chức đào tạo cũng được nhiều cơ sở GDNN áp dụng theo phương thức đào tạo mới (đào tạo theo mô đun, tín chỉ), lấy người học làm trung tâm; chuyển giao, kiểm định và công nhận 22 bộ chương trình cho 22 nghề trọng điểm cấp độ quốc tế từ CHLB Đức; đã và đang tiến hành đào tạo thí điểm 12 nghề theo 12 bộ chương trình chuyển giao từ Úc.
Việc gắn kết với doanh nghiệp đã được chú trọng, nhiều cơ sở GDNN đã tìm ra những hình thức hợp tác với doanh nghiệp hiệu quả; các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động đã tham gia trong việc xây dựng chương trình, tổ chức đánh giá kết quả đào tạo; đã xây dựng được cơ chế phối hợp 3 bên: Nhà nước - Nhà trường - Nhà doanh nghiệp thông qua chương trình phối hợp công tác giữa Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp với VCCI.
Nhìn lại năm 2017, có thể khẳng định chất lượng GDNN bước đầu đã có chuyển biến tích cực, từng bước được cải thiện, một số lĩnh vực đã tiếp cận với trình độ của khu vực và thế giới. Chất lượng, kỹ năng của nguồn nhân lực qua GDNN đã dần từng bước bắt kịp với thị trường lao động và tham gia vào hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, đảm nhận được các vị trí, công việc phức tạp. Tỷ lệ học sinh tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm ngay sau khi tốt nghiệp đạt trên 70%, ở một số nghề đạt trên 90%, với mức thu nhập bình quân từ 7 đến 10 triệu đồng/tháng. …
Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và hội nhập sâu rộng của khu vực, quốc tế, đòi hỏi phải có một lực lượng lao động chất lượng cao để thích ứng, Bộ trưởng sẽ có những hành động cụ thể nào đáp ứng thay đổi này?
-Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ 3 đột phá chiến lược trong đó nội dung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; Chính phủ đã có Nghị quyết số 01/NQ-CP về nhiệm vụ giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2018. Đây chính là những định hướng, những giải pháp chỉ ra không chỉ với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, mà là cho các Bộ, ngành, các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế trong quá trình phát triển hội nhập cùng cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Tôi cho rằng, cơ hội luôn đi cùng thách thức. Tuy nhiên, biết lựa chọn hướng đi đúng với những bước đột phá sẽ cho ta thành công. Năm 2018, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chọn là năm đột phá trong GNNN, với mục tiêu tạo bước chuyển biến rõ nét, thực chất về chất lượng và hiệu quả GDNN đáp ứng nhu cầu của người học, thị trường lao động và doanh nghiệp, đặc biệt là ở những ngành có nhu cầu lao động lớn, đòi hỏi kỹ thuật, công nghệ cao của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Cụ thể nhóm giải pháp sẽ như thế nào, thưa Bộ trưởng?
- Để thực hiện mục tiêu trên thì cần triển khai đồng bộ, có hiệu quả nhiều nhiệm vụ và giải pháp, trong đó đặt trọng tâm vào một số nhiệm vụ giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới hoàn thiện cơ chế, bộ máy quản lý nhà nước về GDNN theo hướng phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, gắn với trách nhiệm; giảm dần sự can thiệp của các cơ quan chủ quản vào các hoạt động đào tạo và quản trị nhà trường; chuẩn hóa, chuyên nghiệp hóa đội ngũ quản lý GDNN ở các cấp, nhất là ở cấp địa phương; ứng dụng mạnh mẽ CNTT trong quản lý GDNN; hiện đại hóa hạ tầng CNTT từ trung ương tới địa phương phục vụ công tác quản lý và điều hành lĩnh vực GDNN.Triển khai các hoạt động dự báo nhu cầu nhân lực và nhu cầu đào tạo theo cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với xu hướng phát triển của khoa học, công nghệ, trước sự phát triển của cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
Thứ hai, tập trung xây dựng thư viện điện tử, hệ thống đào tạo trực tuyến; khuyến khích các cơ sở GDNN xây dựng phòng học đa phương tiện, phòng chuyên môn hóa; hệ thống thiết bị ảo mô phỏng, thiết bị thực tế ảo, thiết bị dạy học thuật và các phần mềm mô phỏng thiết bị dạy học thực tế trong dạy học cho các cơ sở GDNN. Chương trình đào tạo phải được thiết kế linh hoạt, một mặt đáp ứng chuẩn đầu ra của nghề; mặt khác, tạo sự liên thông giữa các trình độ trong một nghề và giữa các nghề; phương pháp đào tạo cần phải thay đổi căn bản trên cơ sở lấy người học làm trung tâm và sự ứng dụng CNTT trong dạy học; đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra trong GDNN theo hướng đáp ứng năng lực thực hiện và tính sáng tạo của người học.
Thứ ba,để đáp ứng yêu cầu đào tạo trong môi trường mới, đội ngũ nhà giáo GDNN phải có những năng lực mới, năng lực sáng tạo và do đó đòi hỏi phải có những phẩm chất mới trên cơ sở chuẩn hóa, thông qua các hoạt động đào tạo, tự đào tạo và bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghề, kỹ năng sư phạm, kỹ năng ứng dụng CNTT trong dạy học và những kỹ năng mềm cần thiết khác. Thường xuyên tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng sư phạm, kỹ năng nghề, kỹ năng công nghệ cho đội ngũ giáo viên GDNN ở nước ngoài và các chương trình tiên tiến ở trong nước.
Thứ tư, đẩy mạnh phát triển đào tạo tại doanh nghiệp, phát triển các trường trong doanh nghiệp để đào tạo nhân lực phù hợp với công nghệ và tổ chức của doanh nghiệp.Tăng cường việc gắn kết giữa cơ sở GDNN và doanh nghiệp, trên cơ sở trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, hướng tới doanh nghiệp thực sự là “cánh tay nối dài” trong hoạt động đào tạo của cơ sở GDNN; có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp tham gia các cuộc thi tay nghề khu vực, thế giới thông qua việc bồi dưỡng tay nghề cho người học tham gia các cuộc thi.
Thứ năm, đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng công nghệ, phương tiện dạy học và ứng dụng CNTT trong dạy học và quản lý đào tạo.Chú trọng các nghiên cứu mô phỏng, nghiên cứu tương tác người - máy. Hình thành mạng lưới nghiên cứu khoa học GDNN giữa các viện, trường trong nước với các viện, trường nước ngoài ở các nước tiên tiến như CHLB Đức, Hàn Quốc và các nước trong ASEAN và châu Á.